Chính phủ Quân quản Hoa Kỳ tại Hàn Quốc
Chính quyền Quân sự Lục quân Hoa Kỳ tại Triều Tiên
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
1945–1948 | |||||||||||||
![]() Vị trí chính quyền quân sự Hoa Kỳ tại Triều Tiên (bán đảo Triều Tiên) | |||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||
Vị thế | Chiếm đóng quân sự – chính phủ lâm thời | ||||||||||||
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Seoul | ||||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Triều Tiên, Tiếng Anh | ||||||||||||
Tổng tư lệnh Hoa Kỳ | |||||||||||||
• 1945–1948 | John R. Hodge | ||||||||||||
Thống đốc quân sự Hoa Kỳ | |||||||||||||
• 1945 | Archibald Vincent Arnold | ||||||||||||
• 1945–1947 | Archer L. Lerch | ||||||||||||
• 1947–1948 | William F. Dean | ||||||||||||
• 1948–1949 | Charles G. Helmick | ||||||||||||
Chủ tịch Quốc hội lâm thời | |||||||||||||
• 1946–1948 | Kim Kyu-sik | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Chiến tranh Lạnh | ||||||||||||
15 tháng 8 năm 1945 | |||||||||||||
• Quân đội Hoa Kỳ đổ bộ | 8 tháng 9 1945 | ||||||||||||
1 tháng 10 năm 1946 | |||||||||||||
10 tháng 5 năm 1948 | |||||||||||||
17 tháng 7 năm 1948 | |||||||||||||
• Thành lập Đệ Nhất Đại Hàn Dân Quốc | 15 tháng 8 1948 | ||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Won, "A yen" (tiền quân dụng), Đô la Mỹ | ||||||||||||
Thông tin khác | |||||||||||||
Giao thông bên | trái | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Hàn Quốc Triều Tiên |
Chính quyền Quân sự Lục quân Hoa Kỳ tại Triều Tiên (tiếng Anh: United States Army Military Government in Korea, viết tắt: USAMGIK) là cơ quan cầm quyền chính thức của miền nam Bán đảo Triều Tiên từ ngày 9 tháng 9 năm 1945 đến ngày 15 tháng 8 năm 1948.
Trong thời kỳ này, đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị và kinh tế do nhiều nguyên nhân.[1] Hậu quả từ Triều Tiên dưới sự cai trị của Nhật Bản vẫn còn hiện hữu trong vùng chiếm đóng, cũng như tại vùng Liên Xô kiểm soát ở phía bắc.[2] Sự bất mãn phổ biến trong dân chúng bắt nguồn từ việc chính quyền quân sự Hoa Kỳ ban đầu duy trì bộ máy cai trị Nhật Bản; sau đó, dù bãi nhiệm, vẫn giữ các cựu quan chức Nhật làm cố vấn; đồng thời giải tán và cấm đoán Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên vốn được quần chúng ủng hộ; cuối cùng là ủng hộ cuộc bầu cử của Liên Hợp Quốc dẫn đến chia cắt đất nước. Chính quyền Hoa Kỳ cũng từ chối công nhận Chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc, mặc dù từ năm 1987 chính phủ Hàn Quốc coi đó là tiền thân hợp pháp của mình.[3][4]
Ngoài ra, quân đội Hoa Kỳ phần lớn chưa được chuẩn bị để đối mặt với thách thức trong việc quản lý đất nước, khi đến nơi mà hoàn toàn không có kiến thức về ngôn ngữ hay tình hình chính trị.[5] Do đó, nhiều chính sách của họ đã tạo ra những tác động ngoài ý muốn, gây mất ổn định. Làn sóng tị nạn từ Bắc Triều Tiên (ước tính khoảng 400.000 người)[6] và những người hồi hương từ nước ngoài đã khiến tình hình thêm rối loạn.[7]
Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]


Nước Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên tồn tại ngắn ngủi đã được thành lập vào tháng 8, với sự tham khảo ý kiến từ phía chính quyền Nhật Bản, và nhanh chóng mở rộng quyền kiểm soát trên khắp đất nước.[8] Chính quyền quân sự Hoa Kỳ đã cấm tổ chức này hoạt động ở miền Nam ngay sau khi họ tới.[5] Lãnh đạo của Cộng hòa Nhân dân, Yeo Un-hyeong, từ chức và thành lập Đảng Nhân dân Triều Tiên.[5] Chính quyền Hoa Kỳ cũng từ chối công nhận các thành viên của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Triều Tiên, do Kim Cửu lãnh đạo, buộc họ phải trở về đất nước với tư cách công dân thường.
Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Những sự kiện chính
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Đế quốc Nhật Bản đầu hàng Phe Đồng Minh, sự chia cắt tại vĩ tuyến 38 Bắc đánh dấu khởi đầu cho việc Liên Xô và Hoa Kỳ lần lượt tiếp quản quyền chỉ huy ở Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên.
Từ năm 1945 đến 1948, trách nhiệm tổng thể đối với miền Nam Triều Tiên được giao cho Tướng Douglas MacArthur với tư cách là Tổng tư lệnh tối cao lực lượng Đồng Minh (SCAP), do những chỉ thị mơ hồ và thiếu sự hướng dẫn từ cả Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và Bộ Ngoại giao Mỹ về vấn đề Triều Tiên. Washington, D.C. quyết định trao cho MacArthur toàn quyền xử lý vấn đề Triều Tiên theo cách ông muốn.
MacArthur đã ra lệnh cho Quân đoàn XXIV, dưới quyền Trung tướng John R. Hodge, không chỉ tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản mà còn thiết lập một chính quyền quân sự tại Triều Tiên.[9][10]
Quân đội Hoa Kỳ đổ bộ xuống Incheon vào ngày 8 tháng 9 năm 1945, và ngay sau đó thiết lập chính quyền quân sự.[11] Lực lượng đổ bộ tại Incheon thuộc Quân đoàn XXIV, trực thuộc Quân đội số 10 Hoa Kỳ.[12]
Bốn ngày trước khi ông đặt chân đến Triều Tiên, Hodge đã nói với các sĩ quan của mình rằng Triều Tiên “là kẻ thù của Hoa Kỳ”.[13]
Ngày 9 tháng 9, tại buổi lễ đầu hàng, Hodge tuyên bố rằng chính quyền thực dân Nhật Bản sẽ được giữ nguyên, bao gồm cả nhân sự và tổng đốc. Sau khi vấp phải phản ứng dữ dội, Hodge đã thay thế tổng đốc bằng một người Mỹ và loại bỏ tất cả các trưởng ty người Nhật, mặc dù sau đó ông lại tuyển dụng các quan chức Nhật cũ làm cố vấn."[14]
Đối mặt với sự bất mãn ngày càng tăng trong dân chúng, vào tháng 10 năm 1945 Hodge thành lập Hội đồng Cố vấn Triều Tiên. Phần lớn ghế trong Hội đồng được trao cho các thành viên của Đảng Dân chủ Triều Tiên – một đảng được thành lập dưới sự khuyến khích của Hoa Kỳ và chủ yếu bao gồm các đại địa chủ, doanh nhân giàu có và các cựu quan chức trong chính quyền thực dân. Một vài thành viên của Ủy ban Nhân dân Triều Tiên (PRK) được mời tham gia, nhưng họ từ chối và thay vào đó đã chỉ trích các thành viên Hội đồng vì sự hợp tác của họ với người Nhật."[15]
Một đề xuất về cơ chế uỷ trị dài hạn đã được đưa ra vào năm 1945. Vào tháng 12 cùng năm, Hoa Kỳ và Liên Xô thoả thuận quản lý bán đảo Triều Tiên thông qua Uỷ ban Liên hợp Mỹ–Xô (U.S.–Soviet Joint Commission), theo quyết định tại Hội nghị Ngoại trưởng Moscow. Theo thoả thuận, Triều Tiên sẽ được trao quyền tự trị sau bốn năm giám sát quốc tế.
Tuy nhiên, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều ủng hộ các chính phủ do người Triều Tiên lãnh đạo ở khu vực chiếm đóng của mình, và các chính phủ này đều phù hợp với hệ tư tưởng chính trị của bên bảo trợ. Ở miền Nam, cơ quan lập pháp lâm thời và chính phủ lâm thời lần lượt do Kim Kyu Sik và Lý Thừa Vãn lãnh đạo. Các cuộc bầu cử liên quan đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ, dẫn đến Khởi nghĩa Mùa thu năm 1946.[16][17]
Ngày 8 tháng 12 năm 1945, USAMGIK ban hành lệnh cấm đình công và ngày 12 tháng 12 cùng năm, các ủy ban nhân dân bị đặt ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 1946, Đảng Cộng sản Triều Tiên đã phát động tổng bãi công. Phong trào bắt đầu từ công nhân đường sắt ở Busan nhưng nhanh chóng lan sang các ngành công nghiệp khác vào ngày 24 tháng 9, thu hút hơn 250.000 công nhân tham gia. Chính quyền quân sự Hoa Kỳ đã tổ chức các hoạt động quân sự để trấn áp người đình công, đồng thời khuyến khích các nhóm hữu khuynh chống cộng. Ngày 1 tháng 10, cảnh sát đã nổ súng vào một cuộc biểu tình bãi công tại Daegu khiến một công nhân thiệt mạng. Các cuộc biểu tình những ngày sau đó đã phát triển thành khởi nghĩa Mùa thu. Chính quyền Hoa Kỳ phản ứng bằng cách ban bố thiết quân luật, cho nổ súng vào đám đông biểu tình, khiến nhiều người thiệt mạng (con số cụ thể không được công bố).[18][19][20] Đến tháng 11 năm 1946, Hodge kêu gọi một tuyên bố chính thức lên án Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên, ông cảnh báo rằng hành động này đồng nghĩa với một tuyên chiến đối với chủ nghĩa cộng sản Triều Tiên, dẫn đến việc bắt giữ các lãnh đạo ủy ban nhân dân và thay thế họ bằng các quan chức hữu khuynh.[21]
Khởi nghĩa Jeju bắt đầu trong thời kỳ Hoa Kỳ chiếm đóng vào tháng 4 năm 1948 khi các phần tử cánh tả giết chết 30 cảnh sát Hàn Quốc. Cuộc nổi dậy này diễn ra sau khi một nhà cộng sản Hàn Quốc tên là Pak Hon-yong (người hợp tác với Kim Il-sung ở Bình Nhưỡng) kêu gọi các nhóm cánh tả và cộng sản ở phía nam vĩ tuyến 38 chống lại cuộc bầu cử năm 1948 tại Hàn Quốc bằng mọi cách cần thiết, đồng thời phát động một cuộc tổng đình công bắt đầu từ ngày 7 tháng 2.
Vào thời điểm đó, trên đảo Jeju có ít nhất 60.000 đảng viên của Đảng Lao động Nam Hàn và khoảng 80.000 người ủng hộ tích cực. Những thành viên và người ủng hộ này không chỉ tham gia đình công mà trong một số trường hợp còn tấn công các cơ sở chính quyền và giao tranh trực diện với lực lượng cảnh sát. Các cuộc đụng độ giữa du kích của Đảng Lao động Nam Hàn với các nhóm hữu khuynh và cảnh sát kéo dài suốt tháng 3 năm 1948.
Bạo lực leo thang nghiêm trọng sau khi Hàn Quốc tuyên bố độc lập vào tháng 8 năm 1948. Chính quyền của Tổng thống Syngman Rhee phần lớn đã đàn áp cuộc khởi nghĩa vào tháng 5 năm 1949. Xung đột ở Jeju chứng kiến những tội ác do cả hai phía gây ra và đã khiến từ 14.000 đến 30.000 người thiệt mạng.[22][23]
Giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Một trong những sắc lệnh sớm nhất do Chính phủ Quân sự Lục quân Hoa Kỳ tại Triều Tiên (USAMGIK) ban hành là tái mở cửa tất cả các trường học, được công bố vào tháng 11 năm 1945. Không có sự thay đổi ngay lập tức nào được thực hiện trong hệ thống giáo dục, vốn đơn giản chỉ được kế thừa từ thời kỳ thuộc địa Nhật Bản. Trong lĩnh vực này, cũng như trong những lĩnh vực khác, chính quyền quân sự tìm cách duy trì hình thức của hệ thống chiếm đóng Nhật Bản.[cần dẫn nguồn]
Mặc dù không tiến hành cải cách giáo dục toàn diện, chính quyền quân sự đã đặt nền tảng cho những cải cách được thực hiện sớm trong Đệ nhất Cộng hòa Hàn Quốc. Năm 1946, một hội đồng gồm khoảng 100 nhà giáo dục Hàn Quốc đã được triệu tập để vạch ra con đường phát triển tương lai của nền giáo dục Hàn Quốc.[cần dẫn nguồn]
Chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Mặc dù chính phủ quân sự ngay từ đầu đã có thái độ thù địch với phe cánh tả, nhưng ban đầu vẫn dung nạp các hoạt động của những nhóm chính trị cánh tả, bao gồm cả Đảng Cộng sản Triều Tiên. Họ đã cố gắng duy trì thế cân bằng giữa phe tả và phe hữu, khuyến khích sự ôn hòa. Tuy nhiên, những nỗ lực này thường mang lại tác dụng ngược, khiến nhiều lãnh đạo quyền lực như Syngman Rhee tức giận.[cần dẫn nguồn]
Giai đoạn hòa giải này không kéo dài lâu. Chỉ trong một thời gian ngắn, chính phủ quân sự đã chủ động vô hiệu hóa và cuối cùng cấm các tổ chức quần chúng vốn đang giành được nhiều sự ủng hộ trong dân chúng, bao gồm cả Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên. Lý do được USAMGIK đưa ra là nghi ngờ những tổ chức này có liên hệ với khối cộng sản, mặc dù trên thực tế họ giữ lập trường tương đối ôn hòa so với Đảng Cộng sản Triều Tiên, vốn cũng đã bị cấm vào thời điểm này.[cần dẫn nguồn]
Một biểu tượng tiêu biểu phản ánh toàn bộ diễn biến của cuộc chiếm đóng Hoa Kỳ tại miền Nam Triều Tiên là việc Hodge và USAMGIK thành lập Hội đồng Lập pháp Lâm thời Nam Triều Tiên vào tháng 12 năm 1946. Hội đồng này dự kiến soạn thảo các dự luật dùng làm “cơ sở cho những cải cách chính trị, kinh tế và xã hội”. Tuy nhiên, phe cánh tả, tập hợp dưới Đảng Công nhân Nam Triều Tiên, đã phớt lờ và từ chối tham gia. Về phía phe bảo thủ, Đảng Dân chủ Triều Tiên (được hậu thuẫn bởi địa chủ và giới tiểu thương) cũng phản đối hội đồng vì các lãnh đạo chủ chốt của họ bị USAMGIK loại trừ.
Vấn đề nảy sinh ở chỗ, mặc dù trong số 45 thành viên của hội đồng có nhiều người thuộc phe bảo thủ, phần lớn lại do Kim Kyu-sik, Phó Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Triều Tiên (thiết lập từ năm 1919 trong thời kỳ Nhật chiếm đóng với mục tiêu giành độc lập cho Triều Tiên dưới hình thức cộng hòa) đề cử, và ông cũng là nhân vật được Hodge lựa chọn để dẫn dắt một Nam Triều Tiên độc lập trong tương lai. Đáng tiếc, Kim lại thiếu sức lôi cuốn và không thể tạo cảm hứng để cả phe tả lẫn phe hữu ủng hộ mình.[24]
Quan hệ Liên - Triều
[sửa | sửa mã nguồn]Vào thời điểm bán đảo Triều Tiên bị chia cắt, phần lớn các ngành công nghiệp của Triều Tiên tập trung ở miền Bắc, trong khi phần lớn diện tích đất nông nghiệp lại thuộc về miền Nam. Các đường dây điện và các tuyến vận tải đường biển vẫn được duy trì trong giai đoạn này, nhưng thường xuyên bị cắt đứt một cách bất ngờ và khó đoán. Miền Bắc, do Liên Xô kiểm soát trong thời kỳ này, có khả năng ngắt nguồn cung cấp điện hoặc phân bón cho miền Nam, và theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, việc này diễn ra khá thường xuyên.[25]
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Kinh tế Hàn Quốc trong giai đoạn này không đạt kết quả khả quan, mặc dù những nền tảng cho sự phục hồi đã được đặt ra. Một bản đánh giá năm 1947 của Ủy ban Điều phối Bộ Ngoại giao – Chiến tranh – Hải quân Hoa Kỳ nhận định rằng Hoa Kỳ đã quản lý sai nền kinh tế Triều Tiên và thất bại trong việc thực hiện các cải cách cần thiết về đất đai và lao động.[1] Báo cáo kết luận: "Cho đến nay, Hoa Kỳ đã làm được rất ít ngoài việc chỉ duy trì tình trạng hiện tại ở Nam Triều Tiên. Toàn bộ hoạt động chỉ được ứng biến từng ngày nhằm ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn, và gần như bỏ qua những vấn đề cơ bản nhất."[1]
Chính quyền quân sự Hoa Kỳ đã áp dụng một loạt cải cách theo hướng thị trường tự do tại Triều Tiên bằng cách gỡ bỏ mọi kiểm soát đối với sản xuất, thu gom, giá cả và phân phối gạo. Điều này dẫn đến tình trạng đầu cơ, tích trữ và nạn đói gia tăng, mặc dù sản lượng lúa gạo năm trước đã tăng 60%.[26] Sau đó, chế độ tem phiếu được áp dụng, trong khi lạm phát trở nên trầm trọng, với tỷ lệ giá cả – tiền lương lên tới 6:1 vào tháng 3.[27] Chẳng hạn, trong giai đoạn này giá một giạ gạo đã tăng từ 9,4 yên lên 2.800 yên.[28]
Nạn tiền giả được cho là một vấn đề nghiêm trọng trong giai đoạn này.[cần dẫn nguồn]
Giải thể
[sửa | sửa mã nguồn]
Sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến năm 1948 và bầu cử tổng thống năm 1948 được tổ chức lần lượt vào tháng 5 và tháng 7, chính phủ đầu tiên của Đệ nhất Cộng hòa Hàn Quốc đã chính thức tuyên bố sự tồn tại của Đại Hàn Dân Quốc vào ngày 15 tháng 8 năm 1948. Quân đội Mỹ cuối cùng cũng rút đi vào năm 1949.[cần dẫn nguồn]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiến dịch Blacklist Forty
- Lịch sử Hàn Quốc
- Ủy trị dân sự Liên Xô
- Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Chang, Kornel (2020). "Independence without Liberation: Democratization as Decolonization Management in U.S.-Occupied Korea, 1945-1948". Journal of American History (bằng tiếng Anh). 107 (1): 77–106. doi:10.1093/jahist/jaaa009. ISSN 0021-8723.
- ^ Nahm (1996, tr. 351); Lee (1984, tr. 375) Bản mẫu:Title missing
- ^ Hart-Landsberg, Martin (1998). Korea: Division, Reunification, & U.S. Foreign Policy. Monthly Review Press. tr. 63–67, 70–77.
- ^ Refugees, United Nations High Commissioner for. "Constitution of the Republic of Korea". Refworld (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023.
- ^ a b c Nahm (1996, tr. 340) Bản mẫu:Title missing
- ^ Allan R. Millet, The War for Korea: 1945–1950 (2005) tr. 59
- ^ Lee (1984, tr. 375) Bản mẫu:Title missing
- ^ Nahm (1996, tr. 330–332); Lee (1984, tr. 374) Bản mẫu:Title missing
- ^ "The Command Structure: AFPAC, FEC and SCAP". history.army.mil. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2023.
- ^ "Chapter II: The House Divided". history.army.mil. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2021.
- ^ Lee (1984, tr. 374); Cumings (1997, tr. 189)
- ^ Cumings, 1997, tr. 189. Nahm (1996, tr. 340) ghi là "Quân đội số 8", phản ánh sự liên kết sau này của Quân đoàn Bản mẫu:Title missing
- ^ Cumings, Bruce (1981). The Origins of the Korean War, Liberation and the Emergence of Separate Regimes, 1945–1947. Princeton University Press. tr. 126.
- ^ Hart-Landsberg, Martin (1998). Korea: Division, Reunification, & U.S. Foreign Policy. Monthly Review Press. tr. [https://archive.org/details/korea00mart/page/71
71–72].
{{Chú thích sách}}
: line feed character trong|pages=
tại ký tự số 49 (trợ giúp) - ^ Hart-Landsberg, Martin (1998). Korea: Division, Reunification, & U.S. Foreign Policy. Monthly Review Press. tr. [https://archive.org/details/korea00mart/page/72
72–73].
{{Chú thích sách}}
: line feed character trong|pages=
tại ký tự số 49 (trợ giúp) - ^ Hart-Landsberg, Martin (1998). Korea: Division, Reunification, & U.S. Foreign Policy. Monthly Review Press. tr. [https://archive.org/details/korea00mart/page/75
75–77].
{{Chú thích sách}}
: line feed character trong|pages=
tại ký tự số 49 (trợ giúp) - ^ Cumings, Bruce (1981). "The Autumn Uprising". The Origins of the Korean War, Liberation and the Emergence of Separate Regimes, 1945–1947. Princeton University Press.
- ^ "Green Left". www.greenleft.org.au.
{{Chú thích web}}
: line feed character trong|title=
tại ký tự số 6 (trợ giúp); Đã bỏ qua văn bản “For ecosocialist action” (trợ giúp) - ^ Scher, Mark J. (1973). "U.S. policy in Korea 1945–1948: A Neo-colonial model takes shape". Bulletin of Concerned Asian Scholars. 5 (4): 17–27. doi:10.1080/14672715.1973.10406346. ISSN 0007-4810.
{{Chú thích tập san học thuật}}
: line feed character trong|journal=
tại ký tự số 9 (trợ giúp) - ^ Kang, Jin-Yeon (2011). "Colonial Legacies and the Struggle for Social Membership in a National Community: The 1946 People's Uprisings in Korea". Journal of Historical Sociology. 24 (3): 321–354. doi:10.1111/j.1467-6443.2011.01400.x. hdl:2027.42/111935. ISSN 0952-1909.
{{Chú thích tập san học thuật}}
: line feed character trong|journal=
tại ký tự số 8 (trợ giúp) - ^ Slater, Joseph E., "Voices in the Wind: American Opposition to the Korean War" (1983). Honors Papers. 648. tr.39
- ^ Johnson, Chalmers (ngày 23 tháng 1 năm 2001). Blowback: The Costs and Consequences of American Empire . Owl Book. tr. [https://archive.org/details/blowback00chal/page/99
99–101]. ISBN 0-8050-6239-4.
{{Chú thích sách}}
: line feed character trong|pages=
tại ký tự số 52 (trợ giúp) - ^ Merrill, John (1980). "Cheju-do Rebellion". The Journal of Korean Studies. 2: 139–197
- ^ "South Korea Under United States Occupation, 1945–48". countrystudies.us. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
- ^ Department of State Publication 3305, October 1948, p. 25
- ^ Slater, Joseph E., "Voices in the Wind: American Opposition to the Korean War" (1983). Honors Papers. 648. tr.41
- ^ Slater, Joseph E., "Voices in the Wind: American Opposition to the Korean War" (1983). Honors Papers. 648. tr.41
- ^ Slater, Joseph E., "Voices in the Wind: American Opposition to the Korean War" (1983). Honors Papers. 648. tr.41